Kỳ hạn | Giá khớp | Thay đổi | Cao nhất | Thấp nhất | Khối lượng | Mở cửa | Hôm trước | HĐ mở |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
09/24 | 384.40 | +5.401.42% | 416.90+37.90 | 341.10-37.90 | 22 | 379.20 | 379.00 | 258 |
10/24 | 432.90 | -0.20-0.05% | 432.90-0.20 | 432.90-0.20 | 1 | 432.90 | 433.10 | 84 |
11/24 | 421.40 | -3-0.71% | 424.400.00 | 421.40-3.00 | 2 | 424.40 | 424.40 | 147 |
12/24 | 417.70 | +0.400.10% | 417.70+0.40 | 417.70+0.40 | 1 | 417.70 | 417.30 | 242 |
01/25 | 408.30 | -3.70-0.90% | 411.90-0.10 | 408.30-3.70 | 7 | 411.90 | 412.00 | 664 |
Kỳ hạn | Giá khớp | Thay đổi | Cao nhất | Thấp nhất | Khối lượng | Mở cửa | Hôm trước | HĐ mở |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
10/24 | 16425 | +1300.80% | 16515+220 | 16300+5 | 239 | 16335 | 16295 | 824 |
10/24 | 18070 | +10956.45% | 18175+1200 | 16880-95 | 128 | 17080 | 16975 | 346 |
11/24 | 18220 | +11957.02% | 18245+1220 | 17020-5 | 10616 | 17135 | 17025 | 6867 |
01/25 | 19645 | +11956.48% | 19780+1330 | 18420-30 | 784439 | 18550 | 18450 | 192776 |
03/25 | 19730 | +11756.33% | 19760+1205 | 18515-40 | 1277 | 18580 | 18555 | 1703 |
Kỳ hạn | Giá khớp | Thay đổi | Cao nhất | Thấp nhất | Khối lượng | Mở cửa | Hôm trước | HĐ mở |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
11/24 | 213.60 | +0.500.23% | 216.00+2.90 | 211.80-1.30 | 2529 | 214.00 | 213.10 | 10421 |
12/24 | 215.00 | +0.900.42% | 217.00+2.90 | 212.60-1.50 | 3920 | 214.90 | 214.10 | 18319 |
01/25 | 215.60 | +0.800.37% | 217.80+3.00 | 213.40-1.40 | 2238 | 215.60 | 214.80 | 16916 |
02/25 | 216.40 | +1.100.51% | 218.10+2.80 | 213.80-1.50 | 832 | 215.90 | 215.30 | 9086 |
03/25 | 217.20 | +1.600.74% | 218.50+2.90 | 214.30-1.30 | 482 | 214.80 | 215.60 | 6272 |
THEO BẢNG GIÁ CAO SU
Kết thúc phiên giao dịch ngày 2/10, giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản vẫn dao động ở mức cao nhất trong 13 năm qua do được hỗ trợ bởi đồng yên yếu hơn và giá dầu thế giới tăng cao.
Theo đó, hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đã tăng thêm 1,1% so với phiên giao dịch trước, lên mức 427,8 yen/kg. Hợp đồng giao tháng 2/2025 ổn định ở mức 413,2 yen/kg.
Đồng yen Nhật suy yếu và duy trì ở mức 143,45 yen đổi một USD, khiến cho các tài sản định giá bằng yen trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua nước ngoài.
Trong khi đó, giá dầu tăng trong phiên giao dịch ngày hôm nay do lo ngại xung đột ở Trung Đông có thể leo thang thành chiến tranh quy mô lớn, gây gián đoạn nguồn cung dầu từ khu vực sản xuất chính sau khi Iran phóng tên lửa đạn đạo vào Israel.
Cao su tự nhiên thường chịu ảnh hưởng từ giá dầu do cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp, được sản xuất từ dầu thô.
Về nguồn cung, Cơ quan Khí tượng Thái Lan cảnh báo về mưa lớn có thể gây lũ quét từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 10.
Trong một diễn biến mới đây, Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết cơ quan này đã yêu cầu Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) phân xử về việc Canada áp đặt thuế cao đối với xe điện, thép và nhôm nhập khẩu từ Trung Quốc.
Doanh số bán ô tô sụt giảm có thể ảnh hưởng đến sản xuất của ngành này, một lĩnh vực có liên quan đến việc sử dụng lốp xe làm từ cao su, theo Reuters.
Tính đến ngày 22/9, tồn kho cao su thiên nhiên đạt 1,17 triệu tấn, giảm 5.000 tấn, tương ứng 0,43% so với trước đó.
Cùng chung xu hướng tăng trên thị trường thế giới, Công ty Cao su Mang Yang hôm nay đã nâng giá thu mua mủ nước lên mức 434 – 438 đồng/TSC, tăng 8 – 14 đồng/TSC so với ngày hôm qua. Bên cạnh đó, mủ đông được điều chỉnh tăng từ 379 – 431 đồng/DRC lên 396 – 449 đồng/DRC.
Tương tự, Công ty Cao su Phú Riềng báo giá mủ tạp ở mức 430 đồng/DRC, tăng mạnh 40 đồng/DRC; giá mủ nước tăng 35 đồng/TSC, đạt 470 đồng/TSC.
Tại các công ty khác, báo giá của Công ty Cao su Bà Rịa hôm nay giữ ở mức 404 - 414 đồng/TSC đối với mủ nước. Trong khi đó, giá mủ đông DRC từ 35 - 44% đạt 14.800 đồng/kg; mủ nguyên liệu là 18.600 – 20.000 đồng/kg.
Công ty cao su Bình Long báo giá thu mua mủ nước ở mức 386 – 396 đồng/TSC; giá mủ tạp (DRC = 60%) là 14.000 đồng/kg.
Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh
Giá sầu riêng Monthong tại vườn dao động 65.000-70.000 đồng một kg, giảm 25-30% so với đầu vụ tháng 7.
Ghi nhận của VnExpress cho thấy, giá sầu riêng cuối vụ tại các hộ trồng ở Gia Lai, Đăk Lăk đang giảm 20.000-30.000 đồng một kg so với đầu vụ (tháng 7).
Cụ thể, sầu riêng loại A (2,7 hộc, 2-5 kg) có giá 65.000-70.000 đồng một kg; loại B (2,5 hộc) giá 55.000-63.000 đồng, giảm 25-30% so với tháng 7 và khoảng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bà Minh Thanh, một nông dân ở Buôn Hồ (Đăk Lăk), kỳ vọng giá sầu riêng cuối vụ sẽ tăng. Tuy nhiên, mưa lớn kéo dài làm giảm chất lượng trái, khiến giá bán tại vườn của bà chỉ đạt 70.000 đồng mỗi kg.
Tương tự, bà Hồng Anh, sở hữu 0,5 ha sầu riêng tại Gia Lai, cũng gặp khó khi thương lái bỏ cọc mua 80.000 đồng một kg, buộc bà phải bán xô với giá chỉ 65.000 đồng do trái chưa đạt chuẩn.
Tại các kho thu mua ở Đăk Lăk, Đồng Nai và Bình Phước, giá thu mua cũng đã giảm mạnh. Sầu Monthong loại A tại Bảo Lộc có giá 82.000 đồng một kg, hàng Đăk Lăk đạt 90.000 đồng, còn hàng dạt dao động 30.000-40.000 đồng một kg, giảm 10-15% so với đầu vụ và 5% so với cùng kỳ năm trước.
Bà Hồng Anh giải thích, giá rớt do mưa nhiều làm giảm chất lượng, đặc biệt là với các vườn trồng mới thiếu kỹ thuật. Trái sượng khiến việc xuất khẩu gặp khó khăn, phần lớn chỉ tiêu thụ nội địa.
"Tôi mua vài tấn mỗi ngày, nhưng chỉ 50% quả đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, phần còn lại bán tại TP HCM, Hà Nội và Đà Nẵng," ông Hoàng nói.
Theo Tổng cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 476.130 tấn sầu riêng, trị giá 1,6 tỷ USD, tăng 50,5% về lượng và 49,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tháng 7 ghi nhận sự sụt giảm 30,8% về giá trị và sản lượng so với tháng 6, chỉ đạt 280 triệu USD. Tháng 8, xuất khẩu tiếp tục giảm còn 200 triệu USD.
Mặc dù xuất khẩu sầu riêng chững lại do ảnh hưởng thời tiết, nhưng các doanh nghiệp cho biết nhu cầu từ Trung Quốc đang tăng trở lại nhờ các dịp lễ hội. Thời tiết thuận lợi từ tháng 10 trở đi sẽ giúp sầu riêng ngon và chất lượng. Ngoài ra, sản lượng hàng trái vụ tăng, dự kiến thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu trở lại.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết sản lượng xuất khẩu giảm trong tháng 7 và 8 chỉ là ngắn hạn. Từ tháng 9, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng sẽ tăng mạnh. Năm nay, ngành sầu riêng có thể đạt kim ngạch gần 3 tỷ USD.
Ngày 19/8, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, hai nước đã ký nghị định thư về xuất khẩu sầu riêng đông lạnh, mở ra cơ hội lớn cho nông sản Việt Nam. Dự kiến, xuất khẩu sầu riêng đông lạnh có thể đạt 400-500 triệu USD trong năm nay.
Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu khoảng 500.000 tấn sầu riêng tươi, trị giá 2,3 tỷ USD, với 90% xuất sang Trung Quốc. Diện tích trồng sầu riêng đạt 154.000 ha, sản lượng gần 1,2 triệu tấn, tăng trưởng 15% mỗi năm.
THEO BÁO DOANH NGHIỆP