Kết thúc phiên giao dịch 20/5, tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Thượng Hải đảo chiều tăng nhẹ 0,03% (5 nhân dân tệ) lên mức 14.840 nhân dân tệ/tấn. Tương tự, giá cao su kỳ hạn tháng 5 trên Sàn OSE ở Nhật Bản tăng 0,3% (1,1 yen/kg) lên mức 330 yen/kg. Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 6 giảm 1,1% (0,85 baht) về mức 76,29 baht/kg.
Nguồn: Lan Hương tổng hợp từ Sở giao dịch Osaka và Hiệp hội cao su Thái Lan
Thị trường cao su trên toàn cầu đang chịu áp lực từ sự suy thoái của Trung Quốc. Những thay đổi như General Motors ngừng xuất khẩu sang Trung Quốc làm nổi bật những thay đổi tiềm năng về nhu cầu, đặc biệt ảnh hưởng đến các lĩnh vực như sản xuất ô tô, vốn nhạy cảm với chi phí vật liệu và thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, những lo ngại về nguồn cung từ những trận mưa lớn của Thái Lan đang phần nào hỗ trợ diễn biến giá, hạn chế mức sụt giảm mạnh hơn.
Tại Hàn Quốc, một vụ cháy đã xảy ra tại Nhà máy sản xuất lớn nhất của Kumho Tire, cụ thể ở khu vực trộn nguyên liệu của Nhà máy số 2, nằm ở phía tây khu tổ hợp Gwangju, theo báo chí địa phương hôm 18/5. Vụ cháy chỉ được dập tắt hoàn toàn sau 77 giờ đồng hồ.
Theo dữ liệu từ công ty, nhà máy Gwangju có công suất sản xuất 12 triệu lốp xe mỗi năm, chiếm gần 20% tổng công suất sản xuất toàn cầu của Kumho. Sau đó, cổ phiếu của Kumho Tire đã giảm hơn 9,3%
Trong thông báo gửi Sở giao dịch chứng khoán ngày 18/5, Kumho Tire đã gửi lời xin lỗi đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi vụ cháy, bao gồm cả cư dân địa phương do những thiệt hại mà đám cháy gây ra.
“Chúng tôi tại Kumho Tire đã thành lập đội phản ứng khẩn cấp để nhanh chóng xử lý công tác khắc phục thiệt hại và hỗ trợ người dân,” thông báo nêu rõ, đồng thời cho biết công ty đang hợp tác với các cơ quan chức năng liên quan về vụ việc.
Công ty cho biết sẽ “tiến hành điều tra kỹ lưỡng” nguyên nhân vụ cháy. Hiện nay, Kumho chưa cung cấp thêm thông tin về mức độ thiệt hại hoặc tác động của vụ cháy đối với triển vọng tài chính trong năm nay.
Trong nước, các doanh nghiệp giữ giá cao su bình ổn. Cụ thể, tại Công ty MangYang, giá thu mua mủ nước ghi nhận khoảng 397 – 401 đồng/TSC (loại 2-loại 1), còn mủ đông tạp khoảng 359 - 409 đồng/DRC (loại 2-loại 1).
Tương tự, Công ty Cao su Phú Riềng báo giá thu mua mủ tạp ở mức 400 đồng/DRC, mủ nước là 440 đồng/TSC. Tại Công ty Cao su Bà Rịa, giá thu mua mủ nước ở mức 462 đồng/độ TSC/kg (áp dụng cho độ TSC từ 25 đến dưới 30); mủ đông DRC (35 - 44%) ở mức 13.600đ/kg; mủ nguyên liệu dao động từ 16.900 - 18.200 đồng/kg.
Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh
Giá sầu riêng hôm nay (20/5) duy trì tương đối ổn định trong khoảng 25.000 - 90.000 đồng/kg tại các vựa thu mua chính trên cả nước, theo khảo sát của trang chogia.vn.
Trong đó, miền Tây Nam Bộ đang có mức giá tốt nhất khi sầu Thái đẹp được mua với giá 85.000 - 90.000 đồng/kg. Sầu Thái loại đẹp tại khu vực miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có giá thấp hơn, chỉ khoảng 72.000 - 85.000 đồng/kg.
*(Đơn vị tính: đồng/kg)
|
|||
Tên loại Sầu Riêng | Ngày 20/5/2025 | Ngày 19/5/2025 | Thay đổi |
KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ | |||
RI6 Đẹp Lựa |
60.000 - 65.000 |
60.000 - 65.000 | - |
RI6 Xô | 25.000 - 28.000 | 25.000 - 28.000 | - |
Sầu Riêng Thái Đẹp Lựa | 85.000 - 90.000 | 85.000 - 90.000 | - |
Sầu Riêng Thái Mua Xô | 45.000 – 50.000 | 45.000 – 50.000 | - |
KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ | |||
RI6 Đẹp Lựa | 55.000 - 60.000 | 55.000 - 60.000 | - |
RI6 Xô | 25.000 - 30.000 | 25.000 - 30.000 | - |
Sầu Riêng Thái Đẹp Lựa | 75.000 – 85.000 | 75.000 – 85.000 | - |
Sầu Riêng Thái Mua Xô | 40.000 – 50.000 | 40.000 – 50.000 | - |
KHU VỰC TÂY NGUYÊN | |||
RI6 Đẹp Lựa | 52.000 – 54.000 | 52.000 – 54.000 | - |
RI6 Xô | 25.000 - 30.000 | 25.000 - 30.000 | - |
Sầu Riêng Thái Đẹp Lựa | 72.000 - 74.000 | 72.000 - 74.000 | - |
Sầu Riêng Thái Mua Xô | 32.000 – 35.000 | 32.000 – 35.000 | - |
Số liệu: Chogia.vn
Tổng hợp: Tố Tố
Ở những nơi khác, Malaysia bắt đầu xuất khẩu sầu riêng tươi sang Trung Quốc vào năm ngoái, vận chuyển trị giá 24,8 triệu ringgit (5,6 triệu USD) trái cây này đến đối tác thương mại lớn nhất của mình từ tháng 8 đến tháng 12, theo dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp và An ninh Thực phẩm Malaysia.
Trong khi đó, Thái Lan đã thống trị thị trường sầu riêng tại Trung Quốc vào năm ngoái, chiếm 57% thị trường trị giá 6,99 tỷ USD, theo dữ liệu từ hải quan Trung Quốc.
Việt Nam là nhà cung cấp lớn thứ hai, chiếm 38% thị trường, theo sau là Philippines và Malaysia, cùng nhau đóng góp 38,2 triệu USD doanh thu.
“Chúng tôi thấy sự tăng trưởng ổn định trong thị trường thực phẩm và trái cây của Trung Quốc,” ông Jiang Jianli, giám đốc bộ phận logistics của Goodfarmer Fresh Fruit Trading, đơn vị chuyên xuất khẩu trái cây từ Philippines sang Trung Quốc, cho biết.
“Trái cây nhập khẩu chất lượng cao tốt cho sức khỏe vẫn đang có nhu cầu cao, mang lại cho chúng tôi cơ hội để theo đuổi sự tăng trưởng hơn nữa.”
CIIE, một sự kiện hàng năm được ra mắt vào năm 2018, được nhiều doanh nghiệp nước ngoài coi là cơ hội tiếp thị hàng đầu, khi Bắc Kinh khuyến khích các công ty địa phương thu mua hàng hóa sản xuất ở nước ngoài như một cách thể hiện cam kết của Trung Quốc đối với tự do thương mại và mở rộng quyền tiếp cận thị trường.
Năm 2024, các thỏa thuận mua hàng trị giá 80 tỷ USD đã được ký kết trong suốt 6 ngày diễn ra triển lãm, tăng 2% so với năm trước.
Các thỏa thuận liên quan đến thực phẩm và sản phẩm nông nghiệp đã là điểm sáng của triển lãm, phản ánh sự gia tăng nhận thức của người tiêu dùng Trung Quốc về an ninh thực phẩm và dinh dưỡng.
Tính đến ngày 18/4, hơn 800 công ty quốc tế từ khoảng 70 quốc gia đã đăng ký tham gia sự kiện năm nay, theo thông tin từ ban tổ chức.
Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh
Kết thúc phiên giao dịch 19/5, tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 6 trên Sàn Thượng Hải giảm tiếp 0,1% (10 nhân dân tệ) về mức 14.835 nhân dân tệ/tấn. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5 trên Sàn OSE ở Nhật Bản tăng 2,8% (9 yen/kg) lên mức 328,9 yen/kg. Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 6 tăng 1,2% (0,94 baht) lên mức 77,14 baht/kg.
Nguồn: Lan Hương tổng hợp từ Sở giao dịch Osaka và Hiệp hội cao su Thái Lan
Trong 4 tháng đầu năm 2025, sản lượng và doanh số bán ô tô của Trung Quốc đều vượt mốc 10 triệu chiếc, ghi nhận lần đầu tiên đạt được cột mốc này, chủ yếu nhờ các chính sách ưu đãi và nâng cấp công nghệ, tờ Yicai Global đưa tin.
Theo Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc (CAAM), sản lượng ô tô tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 10,17 triệu chiếc, trong khi doanh số bán xe tăng 11% lên 10,06 triệu chiếc, tính đến ngày 30/4. Điều này cũng giúp tăng kỳ vọng về mức tiêu thụ lốp xe sử dụng nguồn nguyên liệu cao su.
Sản xuất và tiêu thụ xe năng lượng mới (NEV) tăng mạnh, lần lượt đạt 4,43 triệu và 4,3 triệu chiếc, tương đương mức tăng 48% và 46%.
Trong số lượng xe đã bán ra, khoảng 8,12 triệu chiếc là tiêu thụ trong nước, tăng 12% so với cùng kỳ, trong khi 1,93 triệu chiếc là xuất khẩu, tăng 6%. Đáng chú ý, xuất khẩu xe năng lượng mới tăng vọt 53%, đạt khoảng 642.000 chiếc.
Các thương hiệu xe Trung Quốc đã bán 5,94 triệu xe chở khách trong 4 tháng đầu năm, chiếm 68,7% thị phần, tăng 8,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Thị phần xe chở khách do Trung Quốc sản xuất vượt quá 70%.
Theo ông Cui Dongshu – Tổng thư ký Hiệp hội Xe chở khách Trung Quốc – trong 4 tháng đầu năm, chỉ có 65 mẫu xe bị giảm giá. Thị trường ô tô Trung Quốc đã tăng trưởng mạnh nhờ hỗ trợ chính sách, qua đó giảm mức độ cạnh tranh khốc liệt.
Trong nước, các doanh nghiệp giữ giá cao su bình ổn. Cụ thể, tại Công ty MangYang, giá thu mua mủ nước ghi nhận khoảng 397 – 401 đồng/TSC (loại 2-loại 1), còn mủ đông tạp khoảng 359 - 409 đồng/DRC (loại 2-loại 1).
Tương tự, Công ty Cao su Phú Riềng báo giá thu mua mủ tạp ở mức 400 đồng/DRC, mủ nước là 440 đồng/TSC. Tại Công ty Cao su Bà Rịa, giá thu mua mủ nước ở mức 462 đồng/độ TSC/kg (áp dụng cho độ TSC từ 25 đến dưới 30); mủ đông DRC (35 - 44%) ở mức 13.600đ/kg; mủ nguyên liệu dao động từ 16.900 - 18.200 đồng/kg.