Trung Quốc bắt đầu thu hoạch 2.000 tấn sầu riêng ở Hải Nam, nhưng theo các chuyên gia sản lượng nhỏ, giá cao khó tác động ngay tới hàng Việt giá rẻ, chất lượng tốt.
5 năm trước, một số doanh nghiệp Trung Quốc bắt đầu trồng thử nghiệm sầu riêng tại đảo Hải Nam nhằm giảm phụ thuộc vào nguồn cung nhập khẩu và rút ngắn thời gian đưa trái tươi đến tay người tiêu dùng.
Theo Viện Khoa học Nông nghiệp Hải Nam, diện tích canh tác tại đây tăng gần 4 lần sau 5 năm, từ 700 ha năm 2000 lên 2.600 ha vào 2025. Bình quân diện tích trồng sầu riêng của Trung Quốc tăng 30% một năm. Sầu riêng được trồng tại các vùng Tam Á, Bảo Đình, Lạc Đông và Lăng Thủy của đảo Hải Nam, trong đó khoảng 267 ha đã cho thu hoạch.
Hiện mỗi kg sầu riêng Trung Quốc khoảng 100 nhân dân tệ, tương đương 340.000 đồng. Các chuyên gia nước này kỳ vọng khi sản lượng nội địa tăng, giá bán sẽ giảm xuống khoảng 20 nhân dân tệ một kg (70.000 đồng), tương tự với nho hồng và nho sữa khi được trồng thành công.
Tuy nhiên, để đạt được điều này, họ phải mở rộng diện tích, vượt qua rào cản khí hậu và tối ưu hóa công nghệ sản xuất nhằm hạ giá thành.
Đất nước tỷ dân là thị trường xuất khẩu chủ lực của sầu riêng Việt. Năm ngoái, nước này nhập khẩu sầu riêng trị giá gần 7 tỷ USD, trong đó khoảng 40% từ Việt Nam (2,94 tỷ USD), theo số liệu Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Việc Trung Quốc trồng được sầu riêng, theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, chưa tạo ra mối de dọa đáng kể với người trồng Việt.
Thậm chí, khi đảo Hải Nam - vùng trồng sầu riêng duy nhất ở nước này - mở rộng diện tích tối đa, ông Nguyên cho rằng sản lượng vẫn quá thấp so với nhu cầu tiêu thụ rất lớn của quốc gia tỷ dân này.
Theo ông Nguyên, điều kiện tự nhiên ở Hải Nam chỉ phù hợp một phần cho loại cây này. Khu vực này thường xuyên hứng bão, nhiệt độ thấp, khiến cây mất 4 năm mới ra hoa nhưng có thể bị xóa sổ chỉ sau một trận siêu bão.
Ngoài ra, chi phí lao động và kỹ thuật cao khiến giá thành sản xuất đội lên gấp 2-3 lần so với Việt Nam, khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ Đông Nam Á. Trong khi đó, hàng Việt với hương vị đặc trưng và giá cạnh tranh tiếp tục được người tiêu dùng ưa chuộng. Hiện giá sầu riêng Việt xuất sang thị trường tỷ dân khoảng 90.000-150.000 đồng một kg.
"Với chi phí thấp, Việt Nam có thể bán sầu riêng rẻ hơn, vừa túi tiền người tiêu dùng Trung Quốc", ông Nguyên nói, đồng thời cho rằng nguy cơ hàng Việt bị lấn át gần như bằng không.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng giám đốc Vina T&T, ước tính sản lượng sầu riêng Trung Quốc năm nay tương đương hơn 80 container xuất khẩu của Việt Nam. Theo ông, con số này quá ít để ảnh hưởng tới giá.
Chia sẻ trên People’s Daily Online, ông Lang Haibo, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Nông nghiệp Hải Nam Youqi - một trong số doanh nghiệp trồng sầu riêng - cho biết vụ năm nay dự kiến họ thu hoạch khoảng 2.000 tấn trái chín cây. Mức này gấp gần 40 lần so với vụ đầu tiên của doanh nghiệp (khoảng 50 tấn).
Năm ngoái, Trung Quốc nhập khẩu hơn 1,56 triệu tấn sầu riêng. Chính quyền Hải Nam đặt mục tiêu mở rộng diện tích trồng loại trái này lên 6.600 ha vào năm 2028, đồng thời ứng dụng công nghệ tưới tiêu tự động, AI phân loại trái và mô hình xen canh để tăng năng suất.
Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng chỉ khi sản lượng nội địa đạt hàng trăm nghìn tấn, tác động tới thị trường khu vực mới rõ rệt, điều khó xảy ra trong ngắn hạn.
CEO Vina T&T dự báo ít nhất 10 năm nữa nước này mới đạt sản lượng đáng kể, và đây là khoảng thời gian Việt Nam có thể tận dụng để xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển bền vững.
Ở trong nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quyết định 3015, áp dụng quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm riêng cho trái sầu tươi xuất khẩu. Việc này nhằm nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho ngành.
Chất lượng cải thiện rõ rệt, nhiều lô hàng sầu riêng Việt xuất đi đạt tiêu chuẩn ngang Thái Lan. Tuy vậy, sầu Thái, đặc biệt giống Monthong, vẫn giữ lợi thế nhờ logistics hoàn thiện, sản lượng lớn và thương hiệu rõ ràng, với giá bán lẻ phổ biến 160.000-200.000 đồng một kg.
Theo các doanh nghiệp, lợi thế lớn nhất của Việt Nam hiện là giá xuất khẩu thấp hơn Thái Lan, mở ra khoảng trống để "nới" thị phần. Để duy trì ưu thế, Hiệp hội Rau quả Việt Nam khuyến nghị các địa phương, người trồng tiếp tục đầu tư vùng trồng, áp dụng kỹ thuật VietGAP, GlobalGAP, cải thiện đóng gói và phát triển thương hiệu quốc gia.
Việt Nam đang tăng tốc xuất khẩu sầu riêng. Ba tháng đầu năm, kim ngạch mỗi tháng đều dưới 100 triệu USD. Tháng 4, con số này vượt mốc 100 triệu USD, và tăng lên hơn gấp đôi vào tháng 5, gấp 3 trong tháng 6 (300 triệu USD).
Riêng tháng 7 sản lượng xuất của trái sầu Việt ước đạt 350-400 triệu USD. Lũy kế 7 tháng, giá trị xuất khẩu loại nông sản này đã vượt 1 tỷ USD.
Theo số liệu của Cục Hải quan, trong tháng 7, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 206.155 tấn, trị giá 334,6 triệu USD, tăng 43,3% về lượng và 39,5% về trị giá so với tháng trước, đồng thời tăng 11% về lượng và 8,9% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu cao su đạt 899.771 tấn, trị giá hơn 1,6 tỷ USD, giảm 1,5% về lượng, nhưng tăng 14,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Chủ yếu là do giá cao su xuất khẩu bình quân 7 tháng tăng 16,3%, đạt 1.803 USD/tấn.
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ Cục Hải quan
Tuy nhiên, giá xuất khẩu mặt hàng này đang có sự điều chỉnh giảm trong thời gian gần đây. Tính riêng tháng 7, giá cao su xuất khẩu bình quân chỉ đạt 1.623 USD/tấn, giảm 2,7% so với tháng trước và giảm 1,9% so với cùng kỳ. Đây đã là tháng sụt giảm thứ 4 liên tiếp, kéo giá xuất khẩu xuống mức thấp nhất trong vòng một năm qua.
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ Cục Hải quan
Giá cao su đi xuống cũng là lúc nhiều nước đẩy mạnh lượng hàng mua vào. Trong đó, Trung Quốc đã nhập khẩu 151.859 tấn cao su từ Việt Nam trong tháng 7, với trị giá 242,5 triệu USD, tăng tới 19% về lượng và 17,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung 7 tháng đầu năm, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất, chiếm 70,8% về lượng và 70% về trị giá xuất khẩu cao su của Việt Nam. Lượng cao su xuất khẩu sang thị trường này đạt 637.114 tấn, trị giá 1,13 tỷ USD, tăng 3,2% về lượng và 22,7% về trị giá so với cùng kỳ.
Một số thị trường lớn khác cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng trong 7 tháng qua như: Malaysia đạt 25.659 tấn, tăng 217,1%; Indonesia đạt 23.499 tấn, tăng 96,9%; Mỹ đạt 15.437 tấn, tăng 13,8%...
Ngược lại, lượng cao su xuất khẩu sang thị trường lớn thứ hai là Ấn Độ giảm mạnh 40,3%, xuống còn 44.317 tấn. Tương tự, Hàn Quốc giảm 10%, đạt 25.067 tấn.
Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ Cục Hải quan
Trong báo cáo mới đây, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng với triển vọng tiêu thụ khởi sắc tại Trung Quốc, cùng tín hiệu tích cực trong các cuộc đàm phán thương mại toàn cầu và giá cao su đang phục hồi, xuất khẩu cao su của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng khả quan hơn trong những tháng cuối năm.
Số liệu do Tổng cục Hải quan Trung Quốc công bố cho thấy, trong tháng 7, Trung Quốc đã nhập khẩu tổng cộng 634.000 tấn cao su thiên nhiên và tổng hợp (bao gồm cả mủ cao su Latex), tăng 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc nhập khẩu tổng cộng 4,7 triệu tấn cao su thiên nhiên và tổng hợp, tăng 20,8% so với mức 3,9 triệu tấn cùng kỳ năm 2024.
Theo số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc (CAAM), doanh số bán ô tô tại Trung Quốc trong tháng 7 đạt 2,6 triệu chiếc, tăng 14,7% so với cùng kỳ và nối tiếp mức tăng 13,8% của tháng 6, qua đó thúc đẩy nhu cầu lốp xe và các sản phẩm cao su liên quan.
Còn theo báo cáo của Hiệp hội các quốc gia sản xuất cao su tự nhiên (ANRPC), trong nửa đầu năm 2025, sản lượng cao su tự nhiên toàn cầu ước tính giảm 1,1% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 6,1 triệu tấn; trong khi tiêu thụ tăng 1% lên 7,7 triệu tấn.
ANRPC dự báo sản lượng cao su tự nhiên toàn cầu trong năm 2025 sẽ đạt khoảng 14,9 triệu tấn, tăng 0,5% so với năm 2024. Trong đó, Thái Lan tăng 1,2%, Indonesia giảm 9,8%, Trung Quốc tăng 6%, Ấn Độ tăng 5,6%, Việt Nam giảm 1,3%, Malaysia giảm 4,2%, Campuchia tăng 5,6%, Myanmar tăng 5,3% và các nước khác tăng 3,5%.
Trong khi đó, tiêu thụ cao su tự nhiên toàn cầu dự kiến sẽ tăng 1,3% lên gần 15,6 triệu tấn trong năm 2025. Dự kiến mức tăng này ở Trung Quốc là 2,5%, Ấn Độ là 3,4%, Thái Lan là 6,1%, Indonesia là 7%, Malaysia là 2,6%, Việt Nam là 1,5%, Sri Lanka là 6,7%, Campuchia là 110,3% và ở các nước khác là 3,5%.
Nhu cầu toàn cầu dự kiến tăng trưởng khiêm tốn trong bối cảnh ngày càng lo ngại về sự suy thoái kinh tế toàn cầu, do sự phức tạp trong chính sách thuế quan của Mỹ và dự đoán nhu cầu tăng trưởng chậm lại.
Tuy nhiên, với dự báo trên của ANRPC thì nhu cầu tiêu thụ cao su thế giới vẫn vượt nguồn cung khoảng hơn 670.000 tấn trong năm 2025.
Trên thị trường thế giới, lo ngại thiếu hụt nguồn cung do thời tiết bất lợi tại các quốc gia sản xuất hàng đầu khu vực Đông Nam Á và nhu cầu tăng của thị trường Trung Quốc đã giúp giá cao su lấy lại đà tăng trong tháng 7 và tháng 8, sau khi giảm mạnh vào quý II.
Kết thúc phiên giao dịch ngày 13/8, giá cao su RSS 3 kỳ hạn tháng 9/2025 tại Sở Giao dịch Hàng hóa Osaka (OSE) tại Nhật Bản đạt 324,1 Yên/kg, tăng 2,7% so với cuối tháng 7/2025.
Trên Sàn Giao dịch Hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE) - Trung Quốc, giá cao su tự nhiên kỳ hạn tháng 9/2025 cũng tăng 1,6% trong cùng thời gian, lên mức 14.8250 NDT/tấn.
Riêng tại Thái Lan, giá cao su RSS 3 hợp đồng giao kỳ hạn tháng 9/2025 giảm 2,5%, xuống còn 70,5 Baht/kg.
Giá hợp đồng tương lai cao su tại Nhật Bản tăng nhẹ trước lo ngại về thời tiết bất lợi tại Thái Lan.
Kết thúc phiên giao dịch 13/8, tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 9 trên Sàn Thượng Hải (SHFE) tăng 0,5% (70 nhân dân tệ) lên mức 14.850 nhân dân tệ/tấn. Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 8 nhích nhẹ lên mức 70,48 baht/kg. Tương tự, thị trường Nhật Bản (OSE) tăng 0,7% (2,4 yên) lên mức 330 yen/kg.
Nguồn: Lan Hương tổng hợp từ Sở giao dịch Osaka và Hiệp hội cao su Thái Lan
Giá hợp đồng tương lai cao su tại Nhật Bản tăng trong phiên giao dịch khi thời tiết bất lợi tại Thái Lan – quốc gia sản xuất cao su hàng đầu thế giới, làm dấy lên lo ngại giảm số ngày cạo mủ cao su và nguồn cung bị thu hẹp, Reuters đưa tin.
Cơ quan Khí tượng Thái Lan cảnh báo mưa lớn và lượng tích nước cao từ ngày 13 - 19/8 có thể gây lũ quét và tràn bờ, đe dọa tiến độ thu hoạch của cây trồng.
Thông thường, cây cao su bước vào giai đoạn sản lượng thấp từ tháng 2 đến tháng 5, trước khi đạt đỉnh thu hoạch vào khoảng tháng 6 đến tháng 9. Tuy nhiên, trong năm nay, mưa bão dồn dập từ tháng 6 và tháng 7 đã hạn chế số ngày khai thác, khiến nguồn cung bị chậm lại. Theo công ty môi giới Hexun Futures, yếu tố này đã tạo lực đỡ quan trọng cho giá cao su trên thị trường quốc tế.
Nhu cầu ngành ô tô tác động tới giá cao su
Bên cạnh yếu tố thời tiết, diễn biến của ngành ô tô toàn cầu cũng ảnh hưởng đến triển vọng giá. Doanh số bán xe điện toàn cầu trong tháng 7 tăng 21% so với cùng kỳ, nhưng đây là mức tăng chậm nhất kể từ tháng 1, chủ yếu do doanh số xe hybrid sạc điện tại Trung Quốc giảm. Việc tiêu thụ ô tô chậm lại có thể làm giảm tốc độ sản xuất, kéo theo nhu cầu lốp xe – sản phẩm sử dụng nhiều cao su – suy yếu.
Song song đó, Trung Quốc vừa áp dụng biện pháp thương mại mới, yêu cầu đặt cọc tạm thời lên tới 40,5% đối với nhập khẩu cao su butyl halogen hóa từ Canada và Nhật Bản, bắt đầu từ ngày 14/8, nhằm phục vụ cuộc điều tra chống bán phá giá. Động thái này, kết hợp với đồng yên Nhật yếu hơn, đang khiến thị trường cao su biến động mạnh do thay đổi về chi phí và lợi thế cạnh tranh.
Campuchia nổi lên như nguồn cung quan trọng
Trong khi thị trường khu vực chịu ảnh hưởng bởi thời tiết và chính sách thương mại, Campuchia lại ghi nhận sự gia tăng đáng kể về giá trị xuất khẩu cao su. Theo Tổng cục Cao su, nước này thu về hơn 387 triệu USD từ xuất khẩu cao su và gỗ cao su trong 7 tháng đầu năm 2025, tăng hơn 42% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sản lượng trong giai đoạn này đạt 179.198 tấn, tăng 1,3% so với năm trước. Riêng tháng 7, sản lượng đạt 36.855 tấn, tăng 12,4% so với tháng 6 và tăng gần 9% so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu chỉ đạt 147.071 tấn, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy phần tăng trưởng giá trị chủ yếu đến từ việc giá bán trung bình tăng lên 1.672 USD/tấn.
Theo ông Khun Kakada – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su, Campuchia hiện có 425.443 ha diện tích trồng cao su, trong đó 78% đã sẵn sàng khai thác. Cơ cấu đất trồng gồm 52% là đồn điền công nghiệp và 48% thuộc sở hữu hộ gia đình, phản ánh sự kết hợp giữa sản xuất quy mô lớn và tiểu điền.
Trong nước, các doanh nghiệp bình ổn giá cao su. Cụ thể, Công ty Phú Riềng chào giá thu mua mủ tạp ở mức 387 đồng/DRC, giá thu mua mủ nước 417 đồng/TSC.
Tại Công ty MangYang báo giá thu mua mủ nước khoảng 388 – 393 đồng/TSC (loại 2-loại 1); mủ đông tạp khoảng 346 – 395 đồng/DRC (loại 2-loại 1).
Tương tự, tại công ty Bình Long, giá cao su thu mua bình ổn tại Nhà máy ở mức 422 đồng/độ TSC/kg, giá thu mua tại đội sản xuất 412 đồng/TSC/kg; còn giá mủ tạp bình ổn (DRC 60%) 14.000 đồng/kg.
Công ty Cao su Bà Rịa cũng báo giá thu mua mủ nước bình ổn ở mức 385 đồng/độ TSC/kg (áp dụng cho độ TSC từ 25 đến dưới 30); mủ đông DRC (35 - 44%) ở mức 12.300 đồng/kg, mủ nguyên liệu ghi nhận 15.300 – 16.500 đồng/kg.
Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh