Mặc dù là nước xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới, nhưng hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn cao su để đáp ứng nhu cầu sản xuất và chế biến.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong quý I/2021 đạt 406,5 nghìn tấn, trị giá 674,7 triệu USD, tăng 77,4% về lượng và tăng 102,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu cao su trong quý I/2021 đạt 504,94 nghìn tấn, trị giá 691 triệu USD, tăng tới 176,9% về lượng và tăng 136,9% về trị giá so với quý I/2021.
Với khối lượng chênh lệch gần 100 nghìn tấn, đây là lần đầu tiên trong ít nhất 10 năm ngành cao su Việt Nam nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.
Phần lớn cao su nguyên liệu được nhập khẩu để tái xuất và một phần đáp ứng nhu cầu của nhà sản xuất trong nước.
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong quý I/2021, Campuchia là thị trường cung cấp cao su lớn nhất cho Việt Nam với khối lượng đạt 312 nghìn tấn, tăng tới hơn 10 lần so với cùng kỳ năm 2020.
Đáng chú ý, lượng cao su nhập khẩu từ thị trường này chiếm đến 61,8% tổng khối lượng cao su nhập khẩu vào Việt Nam trong quý I/2021, tăng mạnh so với thị phần 15,4% của cùng kỳ năm 2021.
Giá nhập khẩu bình quân cao su của Việt Nam từ thị trường Campuchia trong quý I/2021 đạt 1.021 USD/tấn, giảm nhẹ 0,8% so với cùng kỳ năm 2020. Đồng thời, mức giá này thấp hơn nhiều so với giá nhập cao su từ các thị trường khác như Hàn Quốc (2.051 USD/tấn), Trung Quốc (2.231 USD/tấn), Nhật Bản (2.544 USD/tấn)…
Trong quý I/2021, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường khác như: Lào, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan… cũng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2020.
Thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã trồng và phát triển một lượng đáng kể cây cao su tại Lào và Campuchia. Tính cuối năm 2020, tổng diện tích mà các đơn vị thành viên Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đang quản lý tại Campuchia là 87.891 ha; trong đó, diện tích kinh doanh là 61.153 ha, kiến thiết cơ bản là 26.732 ha.
Mai Quỳnh
Theo: Thương hiệu & Sản phẩm