Theo số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 3/2023 đạt khoảng 130 nghìn tấn, trị giá 184 triệu USD, giảm 0,8% về lượng và giảm 0,6% về trị giá so với tháng 02/2023; so với tháng 3/2022 tăng 15,7% về lượng, nhưng giảm 9,2% về trị giá.
Giá xuất khẩu cao su bình quân ở mức 1.414 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 02/2023, nhưng giảm 21,5% so với tháng 3/2022.
Tính chung 3 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su ước đạt 396 nghìn tấn
Như vậy, luỹ kế 3 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su ước đạt 396 nghìn tấn, trị giá 552 triệu USD, giảm 2,6% về lượng và giảm 22,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trong quý I/2023, phần lớn các chủng loại cao su xuất khẩu đều sụt giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, xuất khẩu một số chủng loại cao su vẫn tăng trưởng tốt cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2022, trong đó đáng chú ý như: Cao su tổng hợp, RSS1, SVR CV40…, nhưng các chủng loại này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam.
Thông thường, những tháng đầu năm là mùa khô, các vườn trồng cao su ngừng cạo mủ cao su, nguồn cung giảm nên giá cao su thường tăng cao trong quý đầu năm. Thế nhưng năm nay, việc giá xuất khẩu cao su giảm trong những tháng đầu năm là khá bất thường.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá mủ cao su nguyên liệu tiếp tục duy trì quanh mức 230 – 288 đồng/TSC. Trong đó, tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng thu mua ở mức 270 – 280 đồng/TSC. Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa dao động ở mức 286 – 288 đồng/TSC. Mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230 – 240 đồng/TSC, ổn định so với cuối tháng 02/2023.
Năm 2022 mặc dù xuất khẩu cao su đã lập mức kim ngạch kỷ lục mới 3,31 tỷ USD, nhưng so với năm 2011, khối lượng cao su xuất khẩu năm vừa qua cao gấp 2,6 lần, trong khi giá trị kim ngạch chỉ cao hơn không đáng kể. Điều này cho thấy, giá xuất khẩu mỗi tấn mủ cao su chỉ còn bằng 40% so với cách đây 11-12 năm. Giá cao su xuất khẩu bình quân năm 2022 chỉ đạt 1.547 USD/tấn, giảm 7,8% so với năm 2021.
Theo Hiệp hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên thế giới (ANRPC), thu hoạch cao su thiên nhiên năm 2023 dự báo đạt 14,693 triệu tấn về sản lượng, trong nhu cầu tiêu thụ toàn cầu cao su thiên nhiên chỉ là 1,048 triệu tấn. Như vậy, năm 2023, nguồn cung cao su vượt cầu, khiến ngành hàng cao su lại đang rơi vào chu kỳ suy thoái mới.
Hiện nay, cây cao su không còn được ví là “vàng trắng” như trước đây, bởi giá mủ cao su đã giảm đi rất nhiều. Thế nhưng, mùa này, giữa đêm đen vẫn có hàng ngàn người dân ở Đắk Nông đầu đội đèn pin, chân lội suối, băng rừng… đi khai thác mủ cao su giữa đêm đen.
Người nông dân lầm lũi khai thác mủ cao su giữa đêm đen. Ảnh: Phan Tuấn
Khi mùa mưa đến (từ tháng 3 âm lịch kéo dài đến hết Tết Nguyên đán) là thời gian người dân trên địa bàn tỉnh Đắk Nông bước vào vụ thu hoạch mủ cao su.
Khoảng 1h sáng, khi nhiều người đang say giấc ngủ thì ông Lê Công Đầu, ở huyện Đắk R’lấp cùng các thành viên trong độ tuổi lao động của gia đình chuẩn bị dụng cụ lên đường vào rừng tiến hành cạo mủ hơn 7ha cao su.
Dụng cụ gia đình ông Đầu mang theo rất đơn giản, chỉ có dao cạo, găng tay, ủng và đèn pin đội đầu. Theo ông Đầu, muốn có nhiều mủ cao su thì người nông dân phải làm việc giữa đêm khuya, giá lạnh.
Mùa này, trời nhanh sáng, các thành viên trong gia đình ông Đầu phải tranh thủ đi làm sớm hơn; cuối năm thì khoảng 2 – 3 giờ sáng mới bắt đầu công việc. Để thuận lợi trong công việc, người thợ cạo mủ phải mang theo hương trầm vừa làm, vừa đốt để đuổi muỗi vằn.
“Nguy hiểm nhất của nghề cạo mủ cao su là có lần tôi bị rắn cắn vào chân nhưng rất may không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe. Từ đó trở về sau, mỗi khi đi khai thác mủ tôi thường đánh động các bụi cây cho động vật nguy hiểm tránh xa rồi mới tiến hành cạo mủ ở vị trí đó” – ông Đầu cho hay.
Anh Hoàng Văn Hợp ở huyện Krông Nô cho hay, nghề cạo mủ cao su vất vả, chuyện gặp rắn, bọ cạp cắn là điều hết sức bình thường.
Cũng vì làm việc trong bóng tối, lại dưới cánh rừng rậm rạp nên người thợ nào không đủ sức khỏe thì gắng lắm chỉ tồn tại được vài năm trong nghề. Thậm chí, có người mới đi làm, còn vô tình rơi xuống giếng cạn nằm trong rẫy cao su.
“Mỗi đêm, tôi cạo khoảng 500 gốc cao su cho nên chỉ đi bộ quanh rừng thôi cũng mệt lắm rồi. Nhiều lúc, không khí loãng nên khó thở lắm. Lúc đó, người làm nghề khai thác mủ cao su phải tìm chỗ thoáng để nghỉ ngơi, lấy lại hơi đôi chút rồi mới có thể tiếp tục công việc” – anh Hợp cho hay.
Điều đáng nói, nghề cạo mủ cao su không chỉ vất vả vào ban đêm. Bởi khi trời bừng sáng, những người thợ còn phải tiếp tục với công việc trút mủ cao su vào thùng đem về.
Làm việc giữa đêm khuya nên công việc cạo mủ cao su của người dân đối diện với nhiều nguy hiểm. Ảnh: Phan Tuấn
Theo những người trồng cao su, hơn 20 năm trước, khi giá mủ còn cao thì người trồng cao su hoặc người làm nghề khai thác mủ có cuộc sống ổn định, thậm chí rất khá giả. Thế nhưng, kể từ khi “vàng trắng” rớt giá thì cuộc sống của họ cũng bấp bênh hơn.
Thời điểm này, các thương lái đang thu mua giá mủ cao su ở Đắk Nông là 10.000 – 11.000 ngàn đồng chén đông để qua đêm; còn mủ nước có giá 230.000 – 240.000 đồng/1độ. Mức giá mủ như thế này thì người dân chỉ có mức thu nhập bình thường.
Chị Võ Thị Thủy (35 tuổi), trú Bình Phước từng có nhiều năm theo nghề cạo mủ thuê cho những cánh rừng cao su bạt ngàn ở huyện Krông Nô. Người phụ nữ này cho biết, dẫu nghề cạo mủ vất vả, thức trắng mỗi đêm nhưng nếu không làm thì không có thu nhập.
Nghề cạo mủ cao su không đòi hỏi trình độ, đối với những lao động phổ thông như chị Thủy thì chỉ cần có công việc là được. Chị chấp nhận vất vả, khó khăn như một phần tất yếu trong cuộc sống mưu sinh. “Cả nhà chỉ trông chờ vào tiền cạo mủ thuê nên bấp bênh lắm” – chị Thủy cho hay.
Công việc vất vả, thời gian khai thác mủ cao su kéo dài khoảng 8 tháng và bắt đầu từ khi trời chưa sáng. Thế nên, thương nhất là những đứa nhỏ sẽ theo chân cha mẹ đến ở ngay rừng cao su để thuận lợi cho việc khai thác mủ.
Có những gia đình, con cái nghỉ hẳn việc đến trường để đi thu hoạch mủ, mót mủ khô phụ giúp bố mẹ mưu sinh qua ngày.
Khảo sát sáng nay 27/3, tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 4/2023 tăng 2.1 yên/kg ở mức 203,50 yen/kg. Giá cao su kỳ hạn giao tháng 5/2023 ở mức 206.6 yên/kg tăng 3,6 yên/kg tương đương với +1.77% và kỳ hạn 6/2023 ở mức 207.5 yên/kg tăng 4 yên/kg tương đương với +1.97%.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 4/2023 được điều chỉnh tăng lên mức 11.815 nhân dân tệ/tấn, tăng 1,59% (tương đương 185 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó. Kỳ hạn tháng 5/2023 được điều chỉnh lên mức 11.895 nhân dân tệ/tấn, tăng 1,71% (tương đương 200 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), trong năm 2022, Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, lượng và trị giá nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp đều tăng khá so với năm 2021.
Trong đó, Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 305,87 nghìn tấn cao su tự nhiên (HS 4001), trị giá 637,99 triệu USD, tăng 11,5% về lượng và tăng 19,8% về trị giá so với năm 2021.
Thái Lan, Indonesia, Bờ Biển Ngà, Việt Nam và Malaysia là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su tự nhiên cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhập khẩu từ các thị trường này đều tăng trong năm 2022.
Trong đó, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 9 cho Thổ Nhĩ Kỳ với 35,99 nghìn tấn, trị giá 74,58 triệu USD, tăng 14,3% về lượng và tăng 13,8% về trị giá so với năm 2021.
Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Thái Lan, tháng 1/2023, Thái Lan xuất khẩu được 457,13 nghìn tấn cao su (HS: 4001; 4002; 4003; 4005), trị giá 20,91 tỷ baht (tương đương 606,41 triệu USD), tăng 2,4% về lượng, nhưng giảm 15,7% về trị giá so với tháng 1/2022.
Khảo sát cho thấy, Trung Quốc, Malaysia, Nhật Bản, Mỹ và Ấn Độ là 5 thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Thái Lan trong tháng 1/2023.
Trong đó, xuất khẩu cao su sang Trung Quốc chiếm 64,98% tổng lượng cao su xuất khẩu của Thái Lan trong tháng 1/2023 với 297,05 nghìn tấn, trị giá 13,22 tỷ baht (tương đương với 383,4 triệu USD), tăng 3,8% về lượng và tăng 1,1% về trị giá so với tháng 1/2022.
Theo bảng số liệu thống kê cao su hàng tháng được DoSM công bố vào ngày 14/3, tính trong tháng 1/2023, sản lượng cao su tự nhiên giảm mạnh 39,3% so với mức 48.546 tấn của tháng 1 năm ngoái.
Trong đó, 84,2% sản lượng cao su tự nhiên trong tháng 1/2023 được đóng góp bởi các hộ sản xuất nhỏ và 15,8% còn lại đến từ nhóm ngành thuộc lĩnh vực bất động sản.
Ngoài ra, tổng dự trữ cao su tự nhiên của tháng 1/2023 cũng giảm 3,4% xuống còn 194.553 tấn so với mức 201.360 tấn vào tháng 12/2022. Với 90,7% lượng dự trữ đến từ các nhà máy chế biến cao su, tiếp theo là các nhà máy tiêu dùng cao su (9,2%) và các khu đồn điền cao su (0,1%).
Song song đó, lượng xuất khẩu cao su tự nhiên trong tháng 1/2023 đã giảm từ mức 48.797 tấn ghi nhận vào tháng 12 năm ngoái xuống còn 40.867 tấn (tương đương với mức giảm 16,3%).
Giá cao su hôm nay 27/3 (Ảnh minh họa).
Từ đầu tháng 3 đến nay, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu ổn định so với cuối tháng 2, tiếp tục duy trì quanh mức 230-288 đồng/TSC.
Tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng thu mua ở mức 270-280 đồng/TSC.
Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa được giữ ở mức 286-288 đồng/TSC.
Tại Gia Lai, mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230-240 đồng/TSC, ổn định so với cuối tháng 2.
Tổng cục Hải quan Việt Nam cho biết, tháng 1, Việt Nam xuất khẩu được gần 135 nghìn tấn cao su, trị giá 182,6 triệu USD, giảm 50,2% về lượng và giảm 50% về trị giá so với tháng 12/2022. So với tháng 1/2022 giảm 30% về lượng và giảm gần 45% về trị giá.
Giá bình quân xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 1/2023 ở mức 1.354 USD/tấn, tăng 0,5% so với tháng 12/2022, nhưng giảm 21,2% so với tháng 1/2022.
Ngoài ra, tính trong hai tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cao su đạt 266,14 nghìn tấn, trị giá 367,8 triệu USD, giảm 9,5% về lượng và giảm 28,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Theo ghi nhận vào năm 2022, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 9 cho Thổ Nhĩ Kỳ với tỷ trọng chiếm 4,32% trong tổng trị giá nhập khẩu của nước này.