Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết trong 10 ngày giữa tháng 11, giá cao su tại Thái Lan tiếp tục giảm, trong khi giá tại Nhật Bản và Thượng Hải tăng trở lại trong các phiên gần đây khi ngân hàng trung ương Trung Quốc tái khẳng định sẽ có chính sách hỗ trợ mạnh hơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể, tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka Exchange (OSE), sau khi giảm xuống mức 209,5 Yên/kg (ngày 11/11), giá tăng trở lại trong mấy phiên gần đây, nhưng vẫn giảm so với 10 ngày trước đó. Ngày 18/11 giá cao su RSS3 giao kỳ hạn gần ở mức 214,8 Yên/kg (tương đương 1,54 USD/kg), giảm 0,6% so với 10 ngày trước đó và giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2021.
Tại sàn SHFE Thượng Hải, giá cao su có xu hướng tăng. Ngày 18/11, giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2023 ở mức 12.810 NDT/tấn (tương đương 1,79 USD/tấn), tăng 1,8% so với 10 ngày trước đó, nhưng vẫn thấp hơn 11,6% so với cùng kỳ năm 2021.
Tại Thái Lan, giá cao su RSS3 tăng lên mức 51,3 Baht/kg vào ngày 15/11, sau đó giá giảm trở lại, nhưng so với 10 ngày trước đó giá vẫn tăng nhẹ. Ngày 18/11, giá cao su RSS3 chào bán ở mức 50,83 Baht/kg (tương đương 1,42 USD/kg), tăng 0,1% so với 10 ngày trước đó, nhưng giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Tại thị trường trong nước, 10 ngày giữa tháng 11, giá mủ cao su nguyên liệu ổn định so với đầu tháng.
Tại Bình Phước, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty TNHH MTV Cao su Phú Riềng thu mua ở mức 262-272 đồng/TSC, ổn định so với 10 ngày trước đó.
Tại Bình Dương, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa dao động ở mức 271-275 đồng/ TSC, ổn định so với 10 ngày trước đó. Mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230-240 đồng/TSC, ổn định so với 10 ngày trước đó.
Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội các nước sản xuất cao su tự nhiên (ANRPC), trong tháng 10, tổng sản lượng cao su tự nhiên toàn cầu đạt khoảng 1,435 triệu tấn, trong khi nhu cầu toàn cầu ở mức 1,3 triệu tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Nguồn cung dư thừa trong tháng 10 đã góp phần vào biến động của giá cao su trên thị trường thế giới. ANRPC dự đoán nhu cầu cao su tự nhiên toàn cầu sẽ tăng chậm hơn trong năm nay do kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, chỉ tăng hơn 2% so với năm 2021, lên 14,8 triệu tấn.
Thông thường, những tháng cuối năm là giai đoạn các doanh nghiệp sản xuất cao su tăng công suất để đáp ứng nhu cầu tăng cao của thị trường. Theo đó, lượng và giá trị xuất khẩu cũng đồng loạt tăng theo.
Năm nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dường như không đi theo quy luật đó khi lượng xuất khẩu vẫn duy trì tăng trưởng nhưng giá trị thu về lại không tăng tương ứng.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết trong tháng 10, Việt Nam xuất khẩu được gần 223,6 nghìn tấn cao su, trị giá 313,5 triệu USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 12,2% về trị giá so với tháng 9, còn so với tháng 10/2021 tăng 8,7% về lượng nhưng giảm hơn 8% về trị giá.
Giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.402 USD/tấn, giảm gần 3% so với tháng 9 và giảm 15,5% so với tháng 10/2021.
Đây tiếp tục là một mức đáy mới, đánh dấu tháng thấp nhất trong gần hai năm qua của xuất khẩu cao su.
(Số liệu: Tổng cục Hải quan. Tổng hợp: Như Huỳnh)
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), thị trường bị tác động mạnh bởi tình hình dịch bệnh, khủng hoảng chính trị, tình trạng thiếu container, chi phí vận tải cao, giá nhiên liệu tăng mạnh và thông quan chậm ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu đã khiến giá cao su biến động mạnh trong thời gian qua.
Trên thị trường thế giới, theo số liệu từ Trading Economics, đầu tháng 10, giá cao su phục hồi nhẹ so với tháng 9, nhưng sau đó giảm sâu xuống mức 117 UScents/kg. Hiện giá mặt hàng này dao động quanh vùng 127 UScents/kg và chưa có tín hiệu phục hồi rõ ràng.
Bên cạnh đó, năm nay, khi hầu hết quốc gia đã mở cửa trở lại sau đại dịch, tình trạng dư cung cao su thiên nhiên quay trở lại cũng là yếu tố tác động đến xu hướng giá.
Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội Các nước sản xuất cao su thiên nhiên (ANRPC), trong tháng 8 và tháng 9/2022, tổng sản lượng cao su thiên nhiên toàn cầu đạt khoảng 2,7 triệu tấn, tăng 71.000 tấn so với cùng kỳ năm 2021. Trong khi đó, nhu cầu toàn cầu khoảng 2,5 triệu tấn, tăng 85.000 tấn so với cùng kỳ năm 2021.
"Nguồn cung dư thừa trong giai đoạn này đã góp phần vào biến động của giá cao su trên thị trường thế giới, bên cạnh các yếu tố như giá dầu thô giảm và triển vọng kinh tế toàn cầu suy yếu", Cục Xuất nhập khẩu cho hay.
Diễn biến giá cao su từ tháng 5 đến nay. (ĐVT: UScents/kg) (Nguồn: Trading Economics)
Không chỉ giá xuất khẩu giảm, tình hình đơn hàng thu hẹp cũng đang là vấn đề khó khăn của ngành hàng.
Chia sẻ với người viết tại Triển lãm quốc tế ngành công nghiệp nhựa - cao su, ông Nguyễn Quốc Anh, Chủ tịch Hội cao su - nhựa TP HCM, cho biết sức mua của các thị trường tiêu thụ cao su Việt Nam giảm khoảng 20% do lạm phát tăng cao tại nhiều nước.
Khi sức mua giảm, tồn kho theo đó tăng lên nhưng cái khó của doanh nghiệp là dòng tiền không về kịp vì khách hàng không vay được ngân hàng hoặc không thu hồi được vốn. Đây là vấn đề "đau đầu" buộc doanh nghiệp phải cân đối chi phí cho tiết kiệm nhất về cả lao động và nguyên liệu.
"Hiện tại khó khăn nhất là làm sao duy trì đội ngũ công nhân để khi đơn hàng quay trở lại các doanh nghiệp vẫn có thể tổ chức sản xuất", Chủ tịch Hội cao su - nhựa TP HCM nói.
Ông Nguyễn Quốc Anh, Chủ tịch Hội cao su - nhựa TP HCM. (Ảnh: Như Huỳnh)
Cũng theo ông Nguyễn Quốc Anh, tình hình khó khăn của các doanh nghiệp ngành cao su dự báo sẽ kéo dài đến quý II/2023, khi đó lượng hàng tồn kho giảm sẽ thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu hàng hóa trở lại của khách hàng.
Điều này cũng tương đồng với dự báo của Cục Xuất nhập khẩu khi cho rằng thời gian tới giá cao su khó có thể tăng mạnh do nguồn cung cao su tự nhiên toàn cầu cao, hoạt động khai thác có khả năng tăng tốc và duy trì ở mức tốt cho đến tháng 1 năm tới. Ngoài ra, nhu cầu từ các công ty săm lốp có thể không mạnh do kinh tế toàn cầu suy thoái.
Bên cạnh đó, các tháng cuối năm xuất khẩu cao su của Việt Nam vẫn gặp khó khăn do đồng USD đã bước vào chu kỳ tăng giá như một tài sản trú ẩn trước lạm phát. Với các loại hàng hóa cơ bản được tính bằng USD, khi USD tăng mạnh sẽ hạ giá trị các loại hàng hóa này. Cao su cũng không ngoại lệ khi giá mủ có diễn biến giảm trong giai đoạn đồng USD tăng mạnh.
Trước tình hình hiện nay, theo ông Nguyễn Quốc Anh, giải pháp lúc này có thể là sản xuất ít lại, thuyết phục khách hàng lấy thêm hàng để giảm lượng tồn kho, giữ mức sản xuất tối thiểu để công nhân có việc làm trong những tháng cuối năm.
Đồng thời khi hoạt động sản xuất ít đi, doanh nghiệp có thể tận dụng thời gian để thực hiện những công việc mà trước đây vì bận rộn nên chưa triển khai như tổ chức lại quy trình sản xuất, huấn luyện đào tạo, đầu tư thiết bị máy móc...
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết tháng 10, Việt Nam xuất khẩu được gần 223,6 nghìn tấn cao su, trị giá 313,5 triệu USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 12,2% về trị giá so với tháng 9, còn so với tháng 10/2021 tăng 8,7% về lượng, nhưng giảm hơn 8% về trị giá.
Lũy kế 10 tháng năm 2022, xuất khẩu cao su đạt 1,62 triệu tấn, trị giá 2,6 tỷ USD, tăng 8,5% về lượng và tăng 4,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
(Số liệu: Tỏng cục Hải quan. Tổng hợp: Như Huỳnh)
Trong tháng 10/2022, giá cao su xuất khẩu bình quân đạt 1.402 USD/tấn, giảm gần 3% so với tháng 9 và giảm 15,5% so với tháng 10/2021.
(Số liệu: Tỏng cục Hải quan. Tổng hợp: Như Huỳnh)
Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 79,5% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với 177,81 nghìn tấn, trị giá 241,8 triệu USD, tăng 19% về lượng và tăng 16,3% về trị giá so với tháng 9; so với tháng 10/2021 tăng 22% về lượng và tăng 1,7% về trị giá.
Giá cao su xuất khẩu bình quân sang Trung Quốc ở mức 1.360 USD/tấn, giảm 2,3% so với tháng 9 và giảm 16,6% so với tháng 10/2021.
Lũy kế 10 tháng năm 2022, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 1,16 triệu tấn cao su, trị giá 1,81 tỷ USD, tăng 11,5% về lượng và tăng 6,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Ngoài ra, xuất khẩu cao su sang một số thị trường chủ chốt như: Nga, Malaysia, Brazil… tiếp tục tăng so với tháng 10/2021. Tuy nhiên, xuất khẩu sang một số thị trường như: Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Đức, thị trường Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, In-đô-nê-xi-a... lại giảm so với cùng kỳ năm 2021.